Tuy nhiên,ườinữgiớicóýchímãnhliệtsốngsótkỳdiệutrênđảoBắcCựCổng GAME Slot điều khiển chuyến bay từng ngày trôi qua, họ dõi nhìn ra đường chân trời, hy vọng thấy bóng dáng một tgiá rẻ nhỏ bé bé tàu để rồi lòng lại nặng trĩu. Băng bắt đầu hình thành từ tháng 8, nay đã không thể vượt qua. Tới giữa tháng 9/1922, họ cuối cùng đành chấp nhận thực tế là sẽ không có tgiá rẻ nhỏ bé bé tàu nào có thể vượt qua. Đối mặt với khả năng phải sống thêm một năm nữa trên đảo, nhóm thám hiểm bắt đầu chia khẩu phần đồ ăn.
Ada cạnh lều để thực phẩm trên đảo Wrangel. Ảnh: Thư viện Đại học Dartmouth
Họ không biết rằng có một tgiá rẻ nhỏ bé bé tàu tên Teddy Bear đã rời Nome ngày 20/8/1922. Tàu do một người có kinh nghiệm nhất về vùng Bắc Cực điều khiển: Thuyền trưởng Je Bernard, một người Canada gốc Pháp đã đi lại ở vùng Bắc Cực hàng chục năm qua và sống trong cộng đồng người Inuit bản địa. Tuy nhiên, do điều kiện băng giá nghiêm trọng, tàu không thể đi tới Wrangel và buộc phải quay về.
Trên hòn đảo, tình hình đã trở nên tuyệt vọng. Thức ăn khan hiếm. Không còn săn được thú nữa. Ada và những người khác cho rằng gấu, hải cẩu, cáo vẫn còn nhiều, nhưng họ không biết rằng thỉnh thoảng, những loài vật này sẽ thay đổi nơi ở từ năm này qua năm khác. Khi hải cẩu rời đi thì gấu Bắc Cực cũng phải đi nơi khác tìm thức ăn. Mọi chuyện còn tệ hơn khi Lorne mắc bệnh scurvy, căn bệnh do thiếu vitamin C.
Allan và những người khác quyết định hành động. Ngày 29/1/1923, Allan, Fred và Milton rời trại. Họ định vượt 1.127km biển Chukchi đóng băng để tới East Cape, Siberia bằng ván trượt, xin hỗ trợ và thức ăn, để lại Ada chăm sóc Lorne. Họ nghĩ chuyến đi sẽ mất từ 60 đến 70 ngày. Khi họ chia tay nhau, họ hứa sẽ quay trở về cùng một tgiá rẻ nhỏ bé bé tàu vào mùa hè ngay khi băng tan.
Lúc đó, Lorne đã yếu tới mức không thể viết nhật ký, vì thế Ada bắt đầu viết nhật ký, cẩn thận ghi chép các sự kiện hàng ngày. Có lần cô viết: “Cảm ơn Chúa vì tôi vẫn sống”.
Mặc dù Ada là người Inuit nhưng cô không biết gì về sinh tồn nơi láng dã. Không ai dạy cô cách săn bắn hay bẫy thú, nhưng giờ cô không còn lựa chọn nào khác là phải tự học. Mỗi ngày, cô đi bộ hàng kilomet để tìm thức ăn cho mình và Lorne. Để tự vệ, cô mang tbò một tgiá rẻ nhỏ bé bé dao, nhưng nghĩ tới việc gặp phải gấu trên băng là cô kinh hãi.
Cô thường xua gấu khỏi trại, nhưng đó là khi đang dựng khu vực quan sát phía trên và cô thường được cảnh báo trước. Ada biết cô phải tự học cách bắn súng và cô đã dựng các tấm bia tạm bằng hộp trà rỗng rồi tập bắn tiết kiệm để không lãng phí đạn. Cô cũng lần đầu tiên làm một chiếc thuyền bằng da.
Ada làm lưới bắt cá. Ảnh: Thư viện Đại học Dartmouth
Nhưng dù Ada làm việc chăm chỉ tới đâu thì Lorne ngày càng mất kiên nhẫn với Ada khi triệu chứng bệnh nặng lên. Anh mắng mỏ cô, nói cô lười biếng, vô dụng và rằng chồng cô đã đúng khi dùng bạo lực. Có lúc, Lorne còn ném sách vào người Ada.
Ada thừa nhận trong nhật ký: “Đây là cuộc sống tệ nhất mà tôi từng sống trên thế giới này. Mặc dù tôi đã làm đủ việc mệt nhọc và cố gắng hết sức trong mọi việc rồi, nhưng khi tôi về để nghỉ ngơi thì một gã đàn ông lại ném vào tôi đủ mọi từ ngữ, vậy thì tôi biết làm sao”.
Dù vậy, Ada vẫn tiếp tục chăm sóc Lorne, làm nóng cát mỗi ngày để đặt dưới bàn chân, thay các túi bột yến mạch để ngăn Lorne bị lở loét khi nằm liệt giường, đổ phân cho chị ta, giữ lửa cháy liên tục. Đầu năm 1923, ngay cả Ada cũng bắt đầu đau người, mệt và yếu vì bệnh scurvy giai đoạn sớm.
Lorne bắt đầu chảy máu dưới da và mũi, răng lung lay, mất cảm giác thèm ăn và chân bắt đầu xuất hiện vết tím. Năm 1924, tờ Los Angeles Times viết về cuộc thám hiểm đảo Wrangel: “Ada vừa là bác sĩ, y tá, bầu bạn, người phục vụ và là người săn bắn”.
Trong nhật ký, Ada viết về Lorne: “Anh ta không bao giờ ngừng lại để nghĩ ô tôm phụ nữ phải vất vả thế nào khi làm việc của 4 người đàn ông, từ việc lấy củi, săn bắn thú để ăn cho chị ta, dọn giường cho chị ta và đổ phân cho chị ta”.
Mặc dù rạn nứt nhưng hai người vẫn cùng chuyện trò để giết thời gian và Lorne đã đưa cho Ada quyển kinh thánh của mình để Ada đọc bên cạnh tgiá rẻ nhỏ bé bé mèo Vic.
Tuy nhiên, tới ngày 22/6/2023, Lorne chết sau 6 tháng đau đớn. Ada còn lại một mình trên đảo Wrangel.
Ada đứng cạnh một lều của nhóm thám hiểm. Ảnh: Thư viện Đại học Dartmouth
Sau khi Lorne chết, Ada chất các hộp quchị giường để thú láng khỏi ăn thịt và sau đó dọn vào khu lều để thực phẩm cùng tgiá rẻ nhỏ bé bé mèo. Lúc nào Ada cũng nghĩ tới tgiá rẻ nhỏ bé bé trai Bennett và biết mình phải dồn sức lực để sống sót. Cô viết: “Mình phải sống. Mình sẽ sống”.
Mặc dù đã gần hai năm kể từ khi tới hòn đảo này, Ada không bao giờ từ bỏ hy vọng rằng một ngày nào đó cô sẽ trở về Nome và đoàn tụ với tgiá rẻ nhỏ bé bé trai. Sau này, cô kể: “Tôi nghĩ tôi không thể vượt qua nếu không nghĩ tới tgiá rẻ nhỏ bé bé trai ở nhà. Tôi phải sống vì tgiá rẻ nhỏ bé bé trai”.
Cô không biết rằng khi đó, ngày 2/8/1923, tgiá rẻ nhỏ bé bé tàu The Donaldson do đồng nghiệp của ông Vilhjalmur là Harold Noice dẫn đầu đã nhổ neo từ Nome. Đi cùng Harold Noice là 12 người Inuit và một người Mỹ. Khi tàu tới đảo Wrangel ngày 19/8, Harold lo điều tệ nhất đã xảy ra. Ông nói: “Dường như không ai có thể đặt chân lên đây chứ không nói tới việc sống ở một nơi hẻo lánh như vậy”.
Tbò Báo Tin Tức Copy linkLink bài gốc Lấy linkhttps://baotintuc.vn/ho-so/nguoi-phu-nu-co-y-chi-mchị-liet-song-sot-ky-dieu-tren-dao-bac-cuc-ky-cuoi-20210630145603836.htmĐường dây nóng: 0943 113 999
Soha Tagstgiá rẻ nhỏ bé bé trẻ nhỏ bé người nữ giới
sống sót kỳ diệu
tgiá rẻ nhỏ bé bé trẻ nhỏ bé người nam giới
đường chân trời
bột yến mạch
cảm giác thèm ẩm thực
Los Angeles Times
Bắc Cực
đảo láng
Phụ nữ
Báo lỗi cho Soha*Vui lòng nhập đủ thbà tin béail hoặc số di chuyểnện thoại
Top